Giai đoạn thứ tư Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn

Sau năm 369, tình hình hai miền nam-bắc đều có biến động. Ở miền nam, Hoàn Ôn tuy bại trận nhưng không bị truy cứu, lại còn ngang tàng hơn trước và nuôi ý định lấy ngôi nhà Tấn. Năm 370, Ôn phế Tấn Phế Đế, đưa Cối Kê vương Tư Mã Dục lên ngôi, sử xưng là Tấn Giản Văn Đế (371 - 372)[44][45]. Từ đó Hoàn Ôn thao túng quyền hành, thế lực ngày càng to. Tuy nhiên sang năm 373, Hoàn Ôn mất, mối lo Hoàn Ôn cướp ngôi cuối cùng tiêu tan. Nhà Tấn tiếp tục tồn tại thêm mấy mươi năm nữa.

Còn ở miền bắc, Tiền Tần trở mặt, tiêu diệt Tiền Yên (370) rồi lần lượt diệt các nước khác là Tiền Lương và Đại (376), thống nhất miền bắc lần đầu tiên sau hơn nửa thế kỉ. Sau khi hoàn thành việc thống nhất, miền bắc, vua Tần là Phù Kiên mong muốn mở rộng thế lực xuống phía nam nhằm diệt nhà Tấn, thống nhất Trung Quốc.

Năm 373, Phù Kiên bắt đầu đưa quân tràn xuống miền nam, tấn công Lương châu[46] và Ích châu[47]. Đến năm 376, sau khi thống nhất miền bắc, Phù Kiên quyết thân chinh, tiến đánh Đông Tấn. Năm 378, Phù Kiên sai con là Phù Phi dẫn 7 vạn quân tiến công thành Tương Dương[48], còn bản thân Phù Kiên thống lĩnh 10 vạn quân ở phía nam, phân quân tam lộ cùng tiến đánh Tương Dương. Trước lực lượng của quân Tần, đến tháng 2 năm 379, thành Tương Dương bị phá. Sau đó, Phù Kiên lại phái Bành Siêu tấn công Bành Thành[49] và Hoài Nam[50]. Tuy nhiên quân Tần sau đó bị tướng Tấn là Tạ Huyền (344 - 388, cháu tể tướng Tạ An) đánh bại và phải lui về miền bắc.

Tháng 8 năm 383, Hoàn Xung dẫn 10 vạn quân bắc phạt Tiền Tần, tiến đánh thành Tương Dương, đồng thời sai Tiền tướng quân Lưu Bảo công đánh các thành ở miện bắc, Phụ quốc tướng quân Dương Lượng đánh vào đất Thục, chiếm 5 thành rồi tiến vào Phù Thành; còn Ung Dương tướng quân Quách Thuyên tiến đánh Vũ Đương. Sang tháng 6 cùng năm, Hoàn Xung đoạt thành Vạn Tuế và Trúc Dương[51][52]. Trước thế mạnh của quân Tấn, Phù Kiên phái Chinh nam tướng quân, tước Cự Lộc công là Phù Duệ cùng Quan Quân tướng quân Mộ Dung Thùy[53] dẫn 50000 quân cứu Tương Dương. Sau đó, Phù Kiên tiếp tục cử thứ sử Duyện châu Trương Sùng cứu Vũ Đương và Bộ binh giáo úy Diêu Trường[54] cứu Phù Thành, tổng cộng quân đông gần 90 vạn, lại lấy em là Phù Dung làm tiên phong. Hoàn Xung phải lui về nam vào tháng 7 cùng năm.

Cùng lúc đó ở miền bắc, quân Đông Tấn do Quách Thuyên và Hoàn Thạch Xung chỉ huy đánh bại quân Tần ở Vũ Đương, đem 2000 hộ cùng rút về nam. Phù Duệ bèn cử Mộ Dung Thùy làm Tiên phong, đóng ở Lâm Miện Thủy. Để gây thanh thế, Mộ Dung Thùy cho quân thắp đèn trong đêm tối khiến Hoàn Xung hoảng sợ, lại lui về Thượng Minh. Cánh quân của Dương Lượng cũng rút về nam.

Hoàn Xung rút về phía nam thì Phù Kiên lại quyết định nam hạ, bèn tuyển quân, ra lệnh cứ 10 dân đinh lấy 1 người, quân lính dưới 20 tuổi gọi là Vũ Lâm lang. Triều đình Tiền Tần nhiều người phản đối, duy chỉ có Mộ Dung ThùyDiêu Trường tán thành. Phù Kiên hài lòng, dẫn quân nam hạ.

Tháng 8 năm 383, Phù Kiên sai Dương Bình công Phù Dung dẫn theo Trương Hào và Mộ Dung Thùy cùng 20 vạn quân làm tiên phong, Duyện châu thứ sử Diêu Trường làm Long Tương tướng quân, đốc quân sự hai châu Lương, Ích dẫn quân theo sau.

Mấy hôm sau, đội quân hùng hậu của Phù Kiên gồm hơn 60 vạn sĩ tốt, 21 vạn kị binh tiến quân từ Trường An tiến về phía nam[55]. Đến tháng 9, Phù Kiên tiến đến Hạng Thành, rồi Bành thành. Kiên cho thủy quân và lục quân cùng tiến lên, khí thế hừng hực. Cánh quân của Phù Dung tiến về Dĩnh Khẩu[56]. Sang tháng 9, quân Phù Kiên vào Hạng Thành[57] rồi Uy Dương[58], Bành Thành, Hán Giang. Đến tháng 10 năm 383, Mộ Dung Thùy đánh Vân Thành[59], Phù Dung chiếm Hiệp Thạch[60] và Lương Thành đoạt Lạc Hạ[61].

Được tin quân Tần nam hạ, nhà Tấn cử Thượng thư bộc xạ Tạ Thạch làm Chinh Lỗ tướng quân, Chinh thảo đô đốc, thứ sử hai châu Từ, Duyện là Tạ Huyền làm Tiên phong đô đốc, cùng Phụ quốc tướng quân Tạ Diễm, Tây trung lang tướng Hoàn Y cùng các tướng khác như Đới Hi, Đàn Huyền,... dẫn theo 8 vạn quân chống cự, trong khi Long Tương tướng quân Hồ Bân được lệnh dẫn 5000 quân cứu Thọ Dương. Tuy nhiên số quân này chẳng thấm tháp vào đâu so với trăm vạn đại quân của Tiền Tần.

Tạ HuyềnTạ Thạch dựng trại cách Lạc Gián khoảng 25 dặm, không thể tiến lên nữa. Thư của Hồ Lâm ở Hiệp Thạch gửi cho Tạ Huyền bị Phù Dung bắt được, qua đó quân Tần biết được tình hình quân Tấn. Phù Kiên do đó sinh ra chủ quan, để lại phần lớn quân ở lại Thuận Thành, còn mình tự dẫn 8000 kỵ binh đến Thọ Dương[62].

Phù Kiên sai tướng Tấn vừa quy hàng ở Tương Dương là Chu Tự đến doanh trại của Tạ Huyền dụ hàng. Tuy nhiên Chu Tự vẫn trung thành với nhà Tấn, bèn báo lại cho Tạ Huyền biết tình hình quân Tấn mà khuyên Huyền nên nhân khi quân Tần chưa đến đông đủ thì nên phá ngay mới cơ thể thắng.

Tháng 11 năm đó, Tạ Huyền sai Lưu Lao Chi mang 5 nghìn quân sĩ đến Lạc Gián. Quân Lưu Lao ChiHà Khiêm nhân trời tối đem quân bí mật tập kích, cắt đứt giao thông trên sông. Lưu Lao Chi nhân lúc 5 vạn quân tiên phong của Tần qua sông, liền dẫn 5000 quân kị chia làm bốn mũi đánh thẳng vào quân Tần. Quân Tần hành quân xa vốn đã mệt mỏi, lại bị tấn công bất ngờ, hoảng hốt bỏ chạy, trận chiến hai bên trở thành một bên mặc sức chém giết. Quân Tần bị giết gần nửa, chủ tướng Lương Thành, cùng các tướng Vương Hiển, Vương Vịnh... hàng chục tướng Tần bị chém đầu. Lưu Lao Chi thu quân về Hạp Thạch thành. Trận này quân Tần bị bắt giết gần 2 vạn quân, còn Đông Tấn chỉ mất vài trăm quân kị.

Vua Tần Phù Kiên thấy quân Tấn dũng mãnh, quân mình bại trận bắt đầu lo lắng, bèn sai Kỳ Liệt đem quân đóng ở bờ bắc sông Phì. Tạ Huyền gửi thư cho Phù Dung yêu cầu lui lại phía sau một ít để quân Tấn qua sông, quyết một trận sống mái. Mặc cho các tướng phản đối nhưng Phù KiênPhù Dung vẫn đồng ý. Khi ra trận, quân Tấn do quá đông nên đội ngũ rối loạn, lại nhận được lệnh rút quân nên hậu quân tưởng tiền quân có biến. Chu Tự thừa cơ hô to: Quân Tần thua rồi, làm quân Tần hoảng loạn, tranh nhau bỏ trốn, giày xéo lên nhau mà chết, các tướng Tần không sao ngăn cản nổi. Tạ Huyền thừa cơ đó, cùng Tạ DiễmHoàn Y suất quân qua sông, giết được rất nhiều quân Tần, Phù Dung cũng chết trong đám loạn quân. Quân Tấn tiến tới huyện Mật. Phù Kiên bị trúng tên, phải nương nhờ Mộ Dung Thùy là người duy nhất không bị tổn hao binh lực rồi lui về bắc. Quân Tấn thừa thắng truy đuổi tới tận huyện Thọ, bắt được chiếc xe vân mẫu của Phù Kiên cùng vô số khí giới của quân Tần và hơn 10 vạn trâu bò ngựa, sau chiếm lại thành Thọ Xuân.

Sau trận đại thắng Phì Thủy, quân Tấn lập tức thực hiện kế hoạch bắc phạt, thu lại đất đai phía nam sông Hoàng Hà. Tạ An tiến cử Tạ Huyền làm Đô đốc tiên phong, cùng Quan Quân tướng quân Hàng Thạch Kiền bắc phạt Tiền Tần[63]. Quân Tạ Huyền chiếm được Viên Thành, Quyên Thành. Nhiều thành ở Hà Nam lần lượt xin hàng. Lãnh thổ Đông Tấn được mở rộng tới bờ nam sông Hoàng Hà.

Tạ Huyền lưu Lưu Lao Chi lại Quyên Thành rồi tiến đến Thanh châu, lại sai thái thú Hoài Lăng Cao Tố đem 3000 quân đến Quảng Cố. Tướng Tần là Thứ sử Thanh châu Phù Lãng đầu hàng. Nhân đà thắng lợi, Tạ Huyền tiến sang Ký châu. Phù Kiên sai con là Phù Phi đóng quân ở Lê Dương. Huyền nhân đêm tối tập kích Phù Phi, Phi thua trận bỏ trốn sau đó phải xin hòa. Rồi Tạ Huyền phái thái thú Tấn Lăng Đằng Điềm đóng ở Lê Dương, dụ hàng được ba tướng Tấn. Triều đình nghe tin Tạ Huyền thắng trận bèn phong làm huyện công. Sau đó Tạ Huyền lại sai Ninh Viễn tướng quân Diễn[64] đánh Thân Khải ở Ngụy quận, cho Chu Tự trấn thủ Lương Quốc còn mình lui về Bành Thành. Toàn bộ đất đai miền nam sông Hoàng Hà trở về tay quân Tấn, ranh giới bắc-nam thay đổi rõ rệt. Đến đây là chấm dứt cuộc bắc phạt lần thứ tư. Nước Tiền Tần sau trận thua này không thể khôi phục lại nữa, các tướng Mộ Dung Thùy, Diêu Trường... nổi loạn, chia cắt Trung Nguyên thành 10 nước như cũ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn https://zh.wikipedia.org/wiki/s:%E5%8D%81%E5%85%AD... https://zh.wikipedia.org/wiki/s:%E5%8D%97%E5%8F%B2... https://zh.wikipedia.org/wiki/s:%E5%AE%8B%E6%9B%B8... https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/... https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/... https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/... https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/... https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/... https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/... https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/...